


















Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
Có các mục học tập của ngành, ghi chú rõ ràng rành mạch. Dễ hiểu cho sinh viên
Typology: Transcriptions
1 / 26
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
Câu 1. Thuật ngữ - khái niệm và cách tiếp cận văn hóa học (tài liệu 1, 2) Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó như văn hóa nghệ thuật, nếp sống văn hóa.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực như văn hóa kinh doanh, văn hóa giao tiếp.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo không gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng như văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên, văn hóa Nam Bộ.
Theo nghĩa hẹp, giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị tương ứng trong từng giai đoạn như văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn.
Theo nghĩa rộng, văn hóa được xem là bao gồm tất cả những gi do con người sáng tạo ra. Hồ Chí Minh viết trong Nhật ký trong tù: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà con người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. ” Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayo viết trong tạp chí Người đưa tin UNESCO số 11/1989: “ Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong lĩnh vực tư duy và sáng tạo, đối với
những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. ” Cách hiểu thứ hai được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa tại Venise năm 1970. Theo cách định nghĩa mô tả, liệt kê các thành tố của văn hóa. E.B.Tylor coi văn hóa là một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả năng và thói quen mà con người đã đạt được như một thành viên của xã hội. Định nghĩa miêu tả có ưu điểm là giúp nhận diện cụ thể và chính xác đối tượng, nhưng có nhược điểm là tính khái quát thấp, không thể liệt kê hết đối tượng phức tạp, và khi đối tượng thay đổi thì định nghĩa không còn phù hợp. Theo cách định nghĩa nêu đặc trưng, khuynh hướng thứ nhất coi văn hóa là những sản phẩm hay kết quả nhất định. Đó là những giá trị, truyền thống, nếp sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã hội, biểu tượng, ký hiệu, thông tin mà một cộng đồng đã sáng tạo, kế thừa và tích lũy. Khuynh hướng thứ hai coi văn hóa là những quá trình, hoạt động sáng tạo, quy trình, công nghệ, phương thức tồn tại - sinh sống và phát triển, cách thức thích ứng với môi trường, cách thức ứng xử với con người. Khuynh hướng thứ ba coi văn hóa là những quan hệ, cấu trúc giữa các hệ giá trị, giữa con người với tự nhiên. Định nghĩa nêu đặc trưng có ba ưu điểm là 1. có tính khái quát cao, 2. ngắn gọn, và 3. luôn phù hợp với đối tượng khi đối tượng thay đổi. Tuy nhiên, định nghĩa nêu đặc trưng có một nhược điểm là tính chính xác kém. Định nghĩa nêu đặc trưng thích hợp với những đối tượng phức tạp và không ổn định.
Câu 2. Tính đặc thù của đối tượng nghiên cứu của văn hóa học từ khía cạnh văn hóa học (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Với tư cách khách thể nghiên cứu của Văn hóa học, văn hóa có thể được hiểu như kinh nghiệm xã hội của con người thông qua việc tích lũy có chọn lọc, việc áp dụng những hình thức hoạt động và tác động lẫn nhau, được lựa chọn trên cở sở phù hợp với tiêu chí không làm tổn hại tính đoàn kết của cộng đồng, được củng cố bởi hệ thống các giá trị, quy tắc, chuẩn mực, truyền thống, … Văn hóa được thể hiện trong hệ thống các quy định có tính điều chỉnh như phong tục, đạo đức, luân lý, nghi thức, … Chúng được vật thể hóa trong các đặc điểm của các kết quả hoạt động của
con người nhằm thỏa mãn quyền lợi và nhu cầu của cá nhân hoặc tập thể. Văn hóa là nội dung cơ bản của mọi phương thức giao tiếp giữa người với người để hình thành các đặc điểm mã văn hóa của loại giao tiếp đó. Chúng xác định nội dung và phương pháp của quá trình xã hội hóa nhân cách con người. Chúng được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác qua các truyền thống, phong tục, định hướng, giá trị, quy tắc. Và văn hóa là cốt lõi nội dung của quá trình tái sản xuất xã hội, của các đặc điểm lịch sử cụ thể mang tính địa phương trong các hệ thống Câu 3. Vai trò của tiếp xúc và tiếp biến văn hóa (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Văn hóa theo nghĩa rộng đóng vai trò điều chỉnh trong việc xác lập môi trường sinh thái nhân văn hài hòa. Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa vừa là tiền đề vừa là động lực của sự phát triển. Tiếp xúc và tiếp biến là nhu cầu tự nhiên và cũng là điều kiện của sự phát triển, sự tiến hóa văn hóa. Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa tạo nên sự dung
hợp, tổng hợp, tích hợp văn hóa ở cộng đồng. Mỗi tộc người đều có những nét văn hóa riêng biệt từ điều kiện giao tiếp - trao đổi - cộng cư - di cư, các tộc người sẽ có quá trình học hỏi văn hóa lẫn nhau để tiếp thu những sắc thái văn hóa của nhau. Tiếp xúc và tiếp biến văn hóa tạo nên những khác biệt cho các cộng đồng tộc người tại các vùng văn hóa. Câu 4. Khái niệm văn hóa và Bình diện thứ nhất: Phổ quát và đặc thù (tài liệu 1, 2, 3, 4) Sự tiến triển của văn hóa học thời kỳ hậu chủ nghĩa Stalinist đã chứng tỏ sự hợp lý của nó đối với những truyền thống dân tộc của thuyết phổ quát lẫn đối với những mô hình đa nguyên tự do. Văn hóa là một chỉnh thể của những lĩnh vực, hoạt động, bao hàm tính đa dạng của các nền văn hóa, mỗi nền văn hóa có cơ sở hình thành riêng. Trong khi quan tâm đến văn hóa với tư cách là cái toàn thể (a whole), văn hóa học cũng thừa nhận tính đa dạng của những cái toàn thể ấy (wholes) và phân biệt chúng bằng “giá trị”. Nếu trong một nền văn hóa, những lĩnh vực chuyên biệt và đa dạng được liên kết bởi một trực giác chung, tính đặc thù của trực giác chung đó sẽ giúp phân biệt các nền văn hóa khác nhau ở cấp độ toàn cầu. Bình diện này của văn hóa học được phát triển xuyên suốt với Aleksei Losev trong những
nghiên cứu của ông về mĩ học cổ định, giữ tính đặc thù của nó trên tất cả các cấp độ phân tích. Losev chỉ rõ rằng đằng sau những lý thuyết trừu tượng nhất về phép biện chứng của sự đồng nhất và khác biệt của trường phái Platon, và thẳm sâu trong toàn bộ tính cổ xưa tồn tại một trực giác mạnh mẽ và không thể chối bỏ về một trực giác của toàn bộ hiện thực với tư cách là một cơ thể sống. Hai bình diện phổ quát và đặc thù của văn hóa học là không thể chia tách nhưng tầm quan trọng của mỗi bình diện không giống nhau trong từng công trình nghiên cứu. Từ thập niên 1920, trong khi Bakhtin nhấn mạnh đến bản chất đối thoại của nền văn hóa trong những khác biệt nội tại và ngoại biên của nó, Losev lại thiên về lý thuyết hóa tính đồng nhất của văn hóa như một biểu thị đa diện của một trực giác căn bản và nguyên sơ.
1.1. Bình diện thứ hai: Ổn định và biến đổi (tài liệu 1, 2, 3, 4)
Câu 5. Khái niệm văn hóa và Bình diện thứ ba: Sinh thái văn hóa và tiếp biến văn hóa (tài liệu 1, 2, 3, 4) Mối quan hệ tương tác giữa tự nhiên, xã hội và văn hóa gắn liền với những nghiên cứu Jullian Stuard (1902-1972). Hướng cơ bản trong các công trình này là tìm hiểu sự thích nghi của con người xã hội với môi trường xung quanh, tìm hiểu và nhận biết các đặc điểm của hệ thống chỉnh thể xã hội dưới tác động của các hệ sinh thái. Sinh thái học văn hóa là một mô hình lý thuyết nhằm tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên bao quanh, mà văn hóa là sản phẩm của mối quan hệ đó. Những người theo thuyết sinh thái học văn hóa cho rằng văn hóa mỗi tộc người được tạo ra bởi những nguồn tài nguyên và ranh giới của môi trường chung quanh, kể cả những thay đổi của môi trường đó. Kiểu văn hóa được hiểu là một tập hợp những nét khu biệt cho một lối sống do kết quả thích nghi với môi trường xung quanh. Nó là hạt nhân của văn hóa - cái gắn liền với các hoạt động tạo ra phương thức tồn tại và các thiết chế xã hội. Tiếp cận sinh thái học văn hóa vì vậy đòi hỏi phải tìm hiểu sâu nội dung, đặc điểm cũng như những hệ quả tinh thần của một nền văn hóa ở môi trường tự nhiên đã hình thành nên chúng.
Việc nhận thức con người là một bộ phận của tự nhiên, nằm trong một chỉnh thể thống nhất không đồng nghĩa với việc tách rời nó khỏi việc phải sống hài hòa với tự nhiên, thúc đẩy nhiều nhà nghiên cứu xét sự ảnh hưởng của môi trường đến các thành tố văn hóa trong đời sống con người. Điều kiện môi trường nơi tộc người cư trú có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành các yếu tố văn hóa đảm bảo đời sống. Có thể nói, sinh sống lâu đời trong một môi trường sinh thái quen thuộc nên mỗi tộc người đã hình thành nên những kiểu thích ứng với môi trường nhất định, tạo nên những truyền thống sinh hoạt kinh tế xã hội - văn hóa riêng. Sự thích nghi của con người với điều kiện tự nhiên nơi cư trú có thể được thể hiện trong những đặc trưng
văn hóa cũng có thể thể hiện trong những đặc trưng nhân chủng. Sự thay đổi của những điều kiện tự nhiên cũng như việc xuất hiện những cảnh quan văn hóa đa dạng với những yếu tố nhân chủng ở mức độ nhất định gắn liền với tộc người và được thể hiện trong những đặc trưng văn hóa của tộc người đó. Vì vậy, cuộc sống người nguyên thủy vốn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên dấu ấn của môi trường đến các khía cạnh khác nhau của tộc người đó còn rõ ràng. Cùng một tộc người nhưng sinh sống trong môi trường khác nhau, trải qua một thời gian nhất định cũng hình thành những yếu tố văn hóa khác nhau bởi chính điều kiện tự nhiên hoặc do sự vay mượn những tộc người sống trong địa bàn đó. Tinh thần cơ bản của thuyết sinh thái học văn hóa là lao động sáng tạo của con người đã làm nên một thiên nhiên thứ hai, và con người là một thực thể mang tính sinh vật, nên cái thế giới nhân tạo dù vượt qua giới hạn của tự nhiên vẫn không thể là cái gì nằm ngoài thiên nhiên thứ nhất (thiên nhiên thiên tạo). vì vậy, mối quan hệ giữa hai cái thế giới thiên nhiên phải luôn được tính đến trong cuộc sống con người. Thuyết sinh thái học văn hóa đã chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa môi trường tự nhiên và văn hóa, trong đó các môi trường tự nhiên đặc thù là cơ sở cho việc hình thành các mô hình văn hóa khác nhau. Lý thuyết sinh thái học văn hóa muốn mở rộng khuôn khổ cho việc giải thích các vấn đề của đời sống xã hội. Vì mỗi tộc người đều sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, mà môi trường địa lý nơi tộc người đó sinh sống trong mối quan hệ qua lại với thiên nhiên đã ghi dấu ấn và tác động sâu sắc đến văn hóa của chính tộc người đó nên muốn tìm hiểu những đặc trưng của văn hóa tộc người cần phải quan tâm đến không chỉ lịch sử tộc người mà cả môi trường nơi tộc người đó sinh sống. Tuy nhiên, lý thuyết sinh thái học văn hóa chưa làm rõ sự tác động ngược trở lại của văn hóa đối với môi trường tự nhiên.
nông thôn - căn tính nông dân vẫn tiềm ẩn qua hành động, suy nghĩ của người Việt. Ngoài ra, còn có những đặc trưng bản sắc quan trọng nhất, trực tiếp liên quan đến cách tư duy, hành động và ứng xử của con người, gắn liền với bản sắc văn hóa là tính cách dân tộc.
Bản sắc vốn có nghĩa là sự đồng nhất, đồng nhất hóa làm nên bản sắc của đối tượng. Đó là ý niệm của cá nhân về bản thân trong cộng đồng mà họ đang hiện hữu. Nó giúp con người cảm nhận sự tồn tại và vị thế của họ trong các mối quan hệ xung quanh, từ đó mang đến ý thức về cội nguồn, phẩm giá, kinh nghiệm và những kỳ vọng về cộng đồng. Vì vậy, bản sắc là vấn đề có tính bản thể luận, mỗi người đều có nhu cầu xác định bản thân, trả lời câu hỏi tôi là ai và tôi thuộc về đâu trong quan hệ với kẻ khác. Suy cho cùng, bản sắc là sự nhận thức về sự tồn tại của mỗi cá nhân trong quan hệ với xã hội. Ở phương Tây, dưới quan niệm khách quan, cá nhân gắn với tính xã hội trong cộng đồng, thu nhận các mô thức văn hóa và tự nhận mình thuộc về cộng đồng đó. Dưới quan niệm chủ quan, bản sắc văn hóa là tình cảm thuộc về một cộng đồng, thông qua các biểu hiện mà cá nhân tạo ra từ thực tiễn xã hội. Ở Việt Nam, bản sắc văn hóa là những giá trị đặc trưng, nền tảng, cốt lõi, bền vững của một nền văn hóa góp phần khu biệt và nhận diện nền văn hóa ấy với những nền văn hóa khác, chứ không phải là một vấn đề thuộc về ý niệm cá nhân hay tình cảm cá nhân như ở phương Tây. Tựu trung, bản sắc văn hóa là ý thức của chủ thể văn hóa trong quá trình sáng tạo, giao lưu, tiếp biến, giữ gìn và phát triển văn hóa.
Bản sắc văn hóa là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh của mỗi dân tộc, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa làm cho từng dân tộc hiện lên với những nét độc đáo, phân biệt với các dân tộc khác. Bản sắc văn hóa được hình thành, tồn tại và phát triển xuyên suốt quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vưỡng, trừu tượng và tiềm ẩn. Nói cách khác, bản sắc văn hóa là tổng
thể tính cách, tính chất, biểu hiện của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất của bản thân dân tộc đó trong quá trình phát triển. Bản sắc văn hóa thể hiện ra trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Mỗi cộng đồng dân tộc tạo ra bản sắc văn hóa riêng của cộng đồng dân tộc đó trên cơ sở những điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa sinh ra trong một điều kiện nhất định, có sinh ra, vận động, biến đổi và phát triển. Tuy nhiên, trong lịch sử, không có nền văn hóa hoàn toàn bản địa, hoàn toàn không bị lai tạp, phát triển nội bộ dân tộc. Con đường hình thành bản sắc văn hóa gắn liền với quá trình giao lưu văn hóa với các cộng đồng dân tộc bên ngoài. Các cộng đồng dân tộc, nền văn hóa tiếp thu, vay mượn, biến hóa và bổ sung trên cơ sở cái vốn có của cộng đồng dân tộc, nền văn hóa đó. Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị đặc trưng khu biệt dân tộc này với dân tộc khác. Những giá trị đó nằm chủ yếu trong tâm thức của con người và được thể hiện ra trong mọi mặt của đời sống, trong mọi hoạt động, mọi quan hệ của con người và mọi di sản văn hóa của dân tộc. Bản sắc văn hóa là cái cốt lõi, cái đặc thù, cái định hình làm nên tính riêng biệt, độc đáo của văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hóa được hình thành, giữ gìn và phát huy trong quá trình phát triển của dân tộc. Bản sắc văn hóa làm nên cái cốt lõi vững chắc giúp nền văn hóa luôn giữ được tính duy nhất, tính thống nhất nhất quán trong quá trình phát triển. Bản sắc văn hóa là nội lực của dân tộc, là những nét độc đáo của truyền thống, không chỉ giữ gìn những giá trị vốn có mà còn kế thừa có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại sinh. Bản sắc văn hóa còn là sự phản ánh tính ổn định tương đối của văn hóa. Sự thay đổi các giá trị văn hóa vốn có thường diễn ra chậm chạp, trừu tượng, vì vậy, dù bản sắc văn hóa có thay đổi thì nó vẫn không bị biến mất hoàn toàn. Bản sắc được nhận thức hợp lý trên cả hai mặt: mặt bản chất bên trong và mặt biểu hiện ra bên ngoài. Trong đó, mặt bên trong phản ánh tính đồng nhất của một đối
tượng nhất định, mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu riêng của sự vật làm cơ sở để phân biệt với sự vật khác.
Bản sắc là danh từ chỉ tính chất đặc biệt vốn có, tạo thành phẩm cách riêng, là những giá trị hạt nhân tiêu biểu nhất, bản chất nhất mà biểu hiện của chúng có ở mọi lĩnh vực sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng dân tộc. Nói cách khác, đó là bản sắc của nhóm người cùng chung sống trong một vùng lãnh thổ, cùng nói một thứ tiếng, cùng niềm tin vào một hệ thống tôn giáo tín ngưỡng, … Bản sắc văn hóa là tổng thể các giá trị đặc trưng mang tính bản chất tương đối bền vững của nền văn hóa, được hình thành và phát triển qua quá trình lịch sử lâu dài của nền văn hóa đó. Những giá trị mang bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc là sản phẩm được hình thành tất yếu bởi hoàn cảnh địa lý, lịch sử và chính trị. Bản sắc văn hóa là hệ thống những giá trị truyền thống điển hình, bao gồm những thành tố cơ bản của nền văn hóa được xác lập, tồn tại và phát triển trong lịch sử, được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa khác nhau. Hệ giá trị đó có thể được điều chỉnh, tiếp biến và thay đổi theo thời gian, định hình phù hợp với sự tiến hóa của lịch sử, sau một quá trình phát triển lâu dài của tự nhiên và xã hội.
Bản sắc giúp con người tạo dựng đặc trưng khác biệt, từ đó định vị bản thân trong các hình thái xã hội khác nhau, giúp con người có sự tự trọng và được tôn trọng. Hệ giá trị văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị mà chủ thể của nền văn hóa đó đã tích lũy được. Toàn bộ hệ giá trị văn hóa luôn biến động, bắt đầu từ cái gốc là hệ giá trị bản sắc văn hóa vốn chỉ bao gồm giá trị tinh thần. Có những giá trị văn hóa là chuẩn mực trong cộng đồng tộc người này, lại không được chấp nhận ở cộng đồng tộc người khác. Có những giá trị văn hóa ở thời điểm này là chuẩn mực, khuôn mẫu, ở thời điểm khác lại là lỗi thời. Khi nói về những giá trị văn hóa của một nền văn hóa với những giá trị nói chung nghĩa là nói về những giá trị của tộc người đã vượt ra khỏi giới hạn lãnh thổ địa bàn cư trú truyền thống của tộc người đó ảnh hưởng
đến những tộc người khác. Mỗi quốc gia đều có bản sắc, là nhận thức về bản thân quốc gia đó. Bản sắc giúp định hình các mục tiêu mà quốc gia đó theo đuổi. Cách thức các quốc gia hiện thực hóa mục tiêu phụ thuộc vào cách các quốc gia đó nhận thức về bản thân trong mối quan hệ với các quốc gia khác trong quan hệ quốc tế. Các bản sắc xã hội của quốc gia có thể mang tính hợp tác hoặc xung đột, và lợi ích của quốc gia vì vậy luôn biến đổi tùy thuộc vào bản sắc mà quốc gia đó xác định. Nhìn chung, bản sắc là một hiện tượng bao gồm cả những nhân tố ổn định và những quá trình tương tác, xây dựng hay phát triển. Về phương pháp nghiên cứu, xuất phát từ quan niệm văn hóa được tạo nên bởi kiểu quan hệ tương tác của con người, bản sắc văn hóa được nghiên cứu từ khía cạnh mỗi nền văn hóa đều tự phân biệt bản thân với các nền văn hóa khác bàng cách lựa chọn những kiểu phương án giải quyết riêng trước mỗi tình huống. Xuất phát từ cách tiếp cận hoạt động với văn hóa, bản sắc văn hóa lại được nghiên cứu từ các kiểu lựa chọn riêng của cá nhân, dân tộc và nét khu biệt các kiểu lựa chọn riêng của từng cá nhân, dân tộc đó làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau. Trong cách tiếp cận theo hệ giá trị, văn hóa là sự thống nhất toàn bộ những cái mà ở đó các giá trị đã được mọi người thừa nhận và thực hiện, còn giá trị được xem là tất cả những cái mà mọi người mong muốn đạt tới hoặc là tất cả những phương tiện để đạt tới mong muốn đó. Bản sắc văn hóa là những nét văn hóa riêng làm nên hệ giá trị được chấp nhận, được xem như phù hợp, được đem vào hiện thực hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu của cộng đồng trong bối cảnh lịch sử nhất định. Tuy nhiên, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, bao gồm những giá trị phù hợp với nó và cả những giá trị trung tính. Bản sắc là những nét đặc trưng làm nên sắc thái riêng của dân tộc, là giá trị bền vững của dân tộc, được kết tinh trong quá trình hoạt động thực tiễn của dân tộc đó, là những nét khu biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa là cái
mang tính ổn định tương đối, tính lịch sử, tính thời đại, tính dân tộc và tính nhân sinh sâu sắc.
Bản sắc vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm của quá trình trong đó các giá trị cung cấp những ý nghĩa có tính biểu tượng, thúc đẩy sự tự nhận thức của cá nhân với tư cách là thành viên của cộng đồng trên cơ sở tương tác, so sánh với cá nhân, cộng đồng khác. Vì vậy, một cá nhân có thể có nhiều bản sắc khác nhau tùy thuộc từng lĩnh vực so sánh. Một người có thể vừa mang bản sắc văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa Phật giáo, bản sắc văn hóa giới, bản sắc văn hóa nghề nghiệp, những bản sắc văn hóa này có thể chồng lấn nhau mà không hề mâu thuẫn. Một cộng đồng cũng có thể mang nhiều bản sắc khác nhau tùy thuộc từng lĩnh vực so sánh. Một quốc gia có thể vừa mang bản sắc văn hóa gốc nông nghiệp, bản sắc văn hóa Đông Nam Á, bản sắc văn hóa Đông Á, bản sắc văn hóa phương Nam, bản sắc văn hóa phương Đông. Song bản sắc nào sẽ nổi trội tùy vào từng thời điểm, từng mối quan hệ so sánh.
Nếu phân loại trên cơ sở chủ thể, bản sắc được chia thành bản sắc cá nhân và bản sắc cộng đồng. Nếu phân loại trên cơ sở lĩnh vực, bản sắc được chia thành bản sắc văn hóa, bản sắc chính trị, bản sắc tôn giáo, bản sắc nghệ thuật. Nếu phân loại trên cơ sở quy mô, bản sắc được chia thành bản sắc khu vực, bản sắc quốc gia, bản sắc dân tộc, bản sắc cộng đồng/bản sắc nhóm. Văn hóa được xem là hệ giá trị làm nền tảng cho bản sắc cộng đồng. Vì vậy, văn hóa góp phần tạo nên bản sắc liên kết những người cùng sống trong một xã hội nhất định.
Bản sắc văn hóa nảy sinh từ văn hóa, có thể được xác định bởi tầng lớp, giới tính, chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ. Thời hiện đại, nó thường được xác định bởi chủ nghĩa dân tộc. Bản sắc có nguồn gốc từ những gắn kết về mặt tộc người, dựa trên sự chia sẻ chung về ngôn ngữ, lịch sử và huyền thoại. Bản sắc văn hóa là kết quả của cách nhìn từ bên trong hoặc theo cách những gì người khác nhìn nhận bản
thân. Nói một cách khác, bản sắc cho thấy cách nhìn nhận bản thân như thế nào và cách người khác nhìn nhận bản thân như thế nào. Bên cạnh đó, có thể nói, bản sắc văn hóa là tất cả những nét đặc sắc của dân tộc được tạo thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua các cuộc giao lưu - tiếp biến văn hóa, để tồn tại và phát triển. Như vậy, bản sắc vừa là căn tính vừa là đặc trưng giúp phân biệt cộng đồng, dân tộc này với cộng đồng, dân tộc khác. Trong hoạt động nhận thức, con người có một quan hệ bất biến giữa thế giới biểu tượng ở trong trí óc với thế giới tự nhiên khách quan. Mỗi cá nhân, cộng đồng sẽ biểu hiện mối quan hệ này thành những kiểu lựa chọn riêng theo thời gian dựa trên các quy ước xã hội được ấn định và tạo nên dấu ấn riêng. Bản sắc văn hóa, nói cách khác, chính là cái tạo nên những nét độc đáo của nền văn hóa, khu biệt nó với nền văn hóa khác. Bản sắc văn hóa vì vậy cũng chính là đóng góp lớn nhất của mỗi nền văn hóa vào lịch sử nhân loại. Bản sắc văn hóa là những nét đặc thù được khắc họa bởi những hằng số cấu trúc chiều sâu (những hằng số kết tinh thành những giá trị nhân cách xã hội, lý tưởng thẩm mĩ, thói quen tiềm ẩn trong tâm thức), như sợi dây ràng buộc các thành viên của cộng đồng, tạo nên ý thức tự giác tộc người và khác biệt với các cộng đồng dân tộc khác. Bản sắc giúp con người tự hào gìn giữ những cái thuộc về bản thân, và những ký ức mà người khác nghĩ và nhớ đến họ. Con người không thể dùng nhãn quan chủ quan để nói rằng lối sống của dân tộc này hay giai đoạn lịch sử này là kém cỏi, còn lối sống của dân tộc kia, giai đoạn lịch sử kia là văn minh. Họ chỉ có thể tạo được cho bản thân cái gọi là bản sắc văn hóa để người khác có thể nhận diện họ. Dấu ấn bản sắc là điều con người học hỏi, duy trì và phát triển từ người khác, từ thế hệ trước, cùng với thành quả mà họ tạo nên và có được. Đó là hành trang để hướng tới tương lai, giúp con người có thêm kiến thức và kinh nghiệm để tiến lên phía trước, là động lực khi hướng tới tương lai.
Cultural studies cố gắng vạch rõ và điều hòa sự phân rẽ tri thức để vượt qua sự phân hóa giữa những dạng tiềm thức và những dạng thức phổ quát của tri thức. Cultural studies cho rằng có tồn tại một sự đồng nhất chung và quyền lợi chung giữa người quan sát và cái được quan sát. Còn culturology cố gắng tiếp cận văn hóa bằng những thuật ngữ riêng của nó để tạo lập một ngôn ngữ chỉnh thể luận, tránh sa vào
bất kỳ phương diện đơn lẻ nào của văn hóa. Cultural studies quan tâm đến sự đánh giá đạo đức của xã hội hiện đại và những phạm vi cơ bản của hoạt động chính trị. Truyền thống của cultural studies là can dự vào sự tái cấu trúc xã hội thông qua sự phê bình chính trị. Vì vậy, cultural studies hướng đến mục đích hiểu và biến đổi những cấu trúc ưu trội ở bên ngoài xã hội tư bản công nghiệp. Cả cultural studies và culturology đều đặt mục tiêu vượt qua giới hạn tri thức tự do thuần túy. Cultural studies tập trung vào những dạng thức văn hóa có tính chính trị, và những dạng quyền lực về văn hóa, nhằm mục đích giải cấu trúc trong nghiên cứu văn hóa. Culturology lại hướng đến việc mở rộng và nâng cấp những ý nghĩa của biểu tượng văn hóa vượt qua ý nghĩa thực dụng tầm thường. Từ quan điểm văn hóa là một cái toàn thể, culturology phê phán chính trị, xem chính trị như một dạng của sự hô hào, như một dạng quan hệ của quyền lực, như một thứ chủ nghĩa thực dụng hẹp hòi. Nói cách khác, culturology không hướng đến sự đối lập mà hướng đến sự vượt qua một thực tiễn văn hóa có sẵn để sử dụng những mã hóa đa tầng và giải mã từng hiện tượng của nhân loại. Cultural studies hướng đến việc xác định vấn đề trọng tâm trong phạm vi của những thực tiễn văn hóa và mối quan hệ của những thực tiễn văn hóa với quyền lực. Từ đó, vạch ra những mối quan hệ quyền lực và xác định bằng cách nào những mối quan hệ này ảnh hưởng và định hình những thực tiễn văn hóa. Culturology lại hướng đến việc xác định văn hóa với tư cách là nơi những thực tiễn tồn tại
Câu 8. Văn hóa học với các ngành khoa học có nghiên cứu về văn hóa (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6)
hội nào cũng tồn tại một thực thể mà ông gọi là ý thức tập thể, đóng vai trò quyết định hệ thống giá trị, niềm tin của các thành viên và những hành vi của họ. Mặc dù coi ý thức tập thể là một thực thể mang tính cách tâm lý, nhưng Durkheim không giải thích nó bằng hành vi tâm lý cá nhân. Theo ông, đơn vị chính xác của sự phân tích này là những sự kiện xã hội. Những luật lệ xã hội và luật lệ hành vi tồn tại trước khi cá nhân sinh ra, gia nhập xã hội, cá nhân đó phải học hỏi và tuân thủ chúng.
Alfred Louis Kroeber là một trong những nhà nhân học hiện đại tiêu biểu đi theo và phát triển tư tưởng nhân học văn hóa xã hội ấy trong các nghiên cứu. Ông đã tiếp tục tư tưởng của E. Durkheim cho rằng mặc dù con người là giá mang văn hóa nhưng không phải vì vậy mà việc nghiên cứu văn hóa bị thu hẹp vào tâm lý học cá nhân. Khác với Boas, ông cho rằng cá nhân không quan trọng trong việc phân tích văn hóa, nhưng về mặt phương pháp, ông chú ý tới việc chiết trung các phương pháp tổng thể - thực chứng với phương pháp tham dự - dân tộc học, trong đó quan điểm chủ đạo vẫn là văn hóa giữ vai trò quyết định hành vi cá nhân. Theo ông, văn hóa là những khuôn mẫu vượt quá và kiểm soát cá nhân. Ông chứng minh các khuôn mẫu nghệ thuật xuất hiện và biến mất một cách độc lập với các nghệ sĩ phát minh như thế nào.
Với trường phái nhân học địa văn hóa do E. Rassen và L. Frobenius và F.Grebner chủ xướng, Rassen phủ nhận sự thống nhất phát triển của văn hóa nhân
loại và văn hóa chịu sự quy định của những điều kiện địa lý. Theo ông, ít có khả năng các dân tộc khác nhau lại sản sinh ra các hiện tượng văn hóa giống nhau, nếu có sự giống nhau thì đó là kết quả của sự vay mượn. Frobenius đã củng cố và phát triển luận điểm trên bằng những kết quả điền dã ở châu Phi. Đầu thế kỷ XX, trên cơ sở học thuyết ấy, Grebner đã nêu lên thuyết vòng văn hóa quan điểm căn bản là: Mỗi hiện tượng văn hóa chỉ sinh một lần ở một trung tâm, còn nếu nó ở các vùng khác thì do nó được truyền bá từ một trung tâm đầu tiên. Vì thế, nhiệm vụ của dân tộc học là nghiên cứu sự phân bố địa lý của các hiện tượng văn hóa và tìm ra các vòng văn hóa. Trong nhân học sinh thái hiện đại, F. Boas là người có ảnh hưởng mạnh nhất, và Kroeber là người học trò xuất sắc nhất của ông. Kroeber nghiên cứu văn hóa trong mối liên hệ với môi trường sinh thái bao quanh nó. Trong tác phẩm “vùng tự nhiên và vùng văn hóa của thổ dân Bắc Mỹ”, hệ bản đồ về sự phân bố thực vật, địa chất, khí tượng liên quan đến văn hóa của thổ dân đã được Kroeber trình bày rất thuyết phục. J. Steward sau đó đã tiếp tục phát triển cách tiếp cận sinh thái học văn hóa trong việc phân tích văn hóa. Ông nhấn mạnh đến sự thích nghi của văn hóa cá nhân với những điều kiện môi trường riêng biệt. Theo ông, những nền văn hóa ở những môi trường tương tự nhau sẽ có xu hướng phát triển theo những quá trình giống nhau và sẽ tạo nên những đáp trả tương tự nhau đối với những thách thức của môi trường. Ông gọi những đặc điểm văn hóa đó với những phong tục là hạt nhân văn hóa.
Câu 9. Quan điểm tiếp cận chỉnh thể luận trong văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6) Giai đoạn đầu tiên trong phân tích văn hóa một dân tộc hoặc một thời kỳ lịch sử xa xôi nào đó được phát triển trong khuôn khổ giải quyết các vấn đề nhân văn của tư liệu, chủ yếu mang tính chất mô tả kinh nghiệm. Ở giai đoạn này, các phương pháp được sử dụng cho phép các nhà nghiên cứu tháo gỡ những rào cản "không
hiểu" thời đại khác hoặc nền văn hóa khác. Ở đây, việc sử dụng các phương pháp phân tích khác nhau là nhằm hướng tới làm rõ các chứng cớ để giải thích và đạt tới cấp độ lý luận. Đồng thời, được tạo dựng và được phổ biến là mô hình phân loại và mô hình miêu tả để nhận biết văn hóa. Các mô hình này chỉ đưa ra những mô tả cấu
hình hoặc mô tả nền văn hóa như những chỉnh thể mà không chỉ rõ được mối quan hệ nhân quả và các chức năng của hiện tượng được nghiên cứu.
Hệ thống- chỉnh thể là phương pháp nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể mà không cắt đoạn theo địa giới hành chính hay phân giới địa lý. Theo UNESCO, Văn hóa là các hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống. Các yếu tố này gắn liền, có mối quan hệ mật thiết và không thể tách rời với nhau tạo nên bản sắc riêng của từng dân tộc. Tiếp cận Văn hóa theo phương pháp hệ thống- chỉnh thể nghĩa là xem xét văn hóa như một hệ toàn vẹn, có cấu trúc xác định và vận động, phát triển nhờ sự tương tác theo quy luật riêng giữa các bộ phận cấu thành. Xét trên phương diện Văn hóa, hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống là các yếu tố để cấu thành nên bản sắc của từng dân tộc, để phân biệt giữa dân tộc này với dân tộc khác. Khi ta tư duy theo hệ thống- chỉnh thể về văn hóa tức là chúng ta đặt văn hóa vào hệ thống của nó để xem xét, cảm nhận; là nhìn nhận văn hóa từ nhiều điểm nhìn khác nhau để khám phá văn hóa một cách đầy đủ, toàn vẹn và có những khám phá mới về nó. Phương pháp tư duy hệ thống là phương pháp tư duy khoa học, phương pháp tư tưởng rộng cho phép ôm vào nó nhiều phương pháp để phát huy, vận dụng tối đa sức sáng tạo của người tiếp nhận. Phương pháp tư duy hệ thống là một con đường giúp xây dựng căn cứ khoa học để “tự do sáng tạo”, đảm bảo không rơi vào tình trạng mông lung, siêu hình hoặc là bình tán, gán ghép. Đây là phương pháp tư duy mà Giáo sư- Tiến sĩ khoa học Phan Đình Diệu gọi là: “nguồn sức sống mới của đổi mới tư duy” hiện nay. Đây chính là cách tiếp cận bản thể luận, chống lại việc xa rời bản chất, đặc trưng của văn hóa. Các cách tiếp cận về văn hóa khác thường quy văn hóa về một hình thức, dưới một dạng cụ thể. Ví dụ như các định nghĩa chuẩn mực coi văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào. Hay theo định nghĩa tâm lý học lại coi văn hóa là: tổng thể những sự thích nghi
của con người với các điều kiện sinh sống của họ. Từ đó có thể thấy cách tiếp cận để đưa ra định nghĩa của các phương pháp khác thường hướng suy nghĩ vào một hình tượng, 1 vấn đề cụ thể, còn đối với phương pháp hệ thống- chỉnh thể lại mở ra sự tự do trong suy nghĩ để đưa tưởng tượng ra xa hơn, mang lại cái nhìn mới mẻ về văn hóa. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp Hệ thống- chỉnh thể đòi hỏi người tìm hiểu phải có một vốn kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực cũng như phải có cái nhình tổng quan mới có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về vấn đề đang tìm hiểu. Đây là một nhược điểm của cách tìm hiểu này. Ví dụ về cách tiếp cận Hệ thống- chỉnh thể trong tác phẩm Truyện Kiều- Nguyễn Du. Khi tìm hiểu nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều, chúng ta phải đặt nhân vật trong tương quan với hệ thống nhân vật trong tác phẩm, tức là đặt hình tượng Thúy Kiều trong mối quan hệ với gia đình (Vương ông, Thúy Vân), với người yêu ( Kim Trọng), với Thúc Sinh, Từ hải và cả với các thế lực đói nghịch: Bạc Bà, Bạc Hạnh, Tú Bà, Sở Khanh,… Từ đó ta mới thấy được cái đẹp cũng như giá trị nhân văn của nhân vật này. Ta cũng cần đặt Thúy Kiều trong hệ thống văn hóa Việt Nam, cách tư duy của người Việt để thấy được tinh thần dân tộc đậm đà mà nhà thơ gửi gắm vào nhân vật khi tác giả đã sáng tạo lại một tiểu thuyết của Trung Hoa. Nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể thống nhất cần chia tách chỉnh thể văn hóa thành các bộ phận, các yếu tố và vạch ra những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Mỗi yếu tố, mỗi vai trò, mỗi thiết chế của văn hóa có một chức năng nhất định. Mỗi yếu tố riêng lẻ vừa là một chỉnh thể, vừa là một mắt xích mà nếu thiếu nó thì văn hóa không thể tồn tại như chỉnh thể. Ví dụ: thiết chế gia đình được cấu thành bởi cặp yếu tố vợ-chồng, và cha mẹ-con cái. Mỗi cặp yếu tố đều có chức năng riêng. Người cha là trụ cột của gia đình, đảm bảo cho sự tồn tại của gia đình. Người mẹ là người chăm sóc và giáo dục con cái. Câu 10. Quan điểm tiếp cận so sánh trong văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6)
quốc gia văn minh có được ngày hôm nay có một phần đóng góp không nhỏ của những học thuyết này.
Tương đối luận văn hóa có mục đích chính là để nhấn mạnh rằng mỗi một nền văn hóa có những “chuẩn mực” riêng của nó trong việc hiểu và đánh giá, từ đó các nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận phù hợp, tránh những quan điểm áp đặt, vị chủng luận. Hiển nhiên có những ứng xử được coi là bình thường trong xã hội này, nhưng lại không bình thường hay thậm chí không tồn tại trong xã hội khác. Chúng ta biết rằng cùng một âm thanh, động tác, biểu tượng hay hành động của xã hội này có thể có ý nghĩa khác nhau (hay không có ý nghĩa) trong xã hội khác. Vì vậy, áp dụng chuẩn mực của một xã hội này vào một xã hội khác đơn giản không thực sự đúng và có thể là sai.
Herscovits đã chia học thuyết này ra làm ba phương diện:
nước ngoài, nhưng nó đã tạo được một tiền đề quan trọng cho những người làm công tác nghiên cứu sau này phát triển. Câu 12. Lược sử quan niệm về văn hóa (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - cuối thế kỷ XX) (tài liệu 1, 2, 3, 4) Giai đoạn 1 (giai đoạn manh nha): từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là giai đoạn hình thành nền móng của khoa học về văn hóa. Ở châu Âu, thuật ngữ kultur (văn hóa) được một loạt các nhà khoa học người Đức sử dụng. Năm 1843, Gustav Kleim (1802-1867) đề xuất một khoa học về văn hóa (kulturwissenschaft) trong Tổng tập lịch sử văn hóa nhân loại. Năm 1854, Gustav Kleim xuất bản bộ sách Tổng quan lịch sử văn hóa học trình bày khoa học về văn hóa, và sự phát triển của loài người như một lịch sử văn hóa. Từ cuối thế kỷ XIX, ở Đức xuất hiện thêm thuật ngữ văn hóa học (kulturkunde) và đất nước học (landeskunde). Người Đức chú ý đến mối liên hệ địa lý của văn hóa nên đưa ra thuyết truyền bá luận trong văn hóa học. Về ý nghĩa chuyên ngành, khái niệm kultur từ tiếng Đức đã đi vào tiếng Anh, và được Edward Burnett Tylor định nghĩa vào năm 1871 trong bộ sách Văn hóa nguyên thủy (Primitive Culture). Emile Durkheim (1858-1917) lại chú ý đến vai trò của xã hội, nêu ra thuyết ý thức tập thể trong văn hóa. Sigmund Freud (1856-1939) lại từ góc độ tâm lý học mà chú ý đến vai trò của vô thức, nghiên cứu tính chất cộng đồng của các tộc người, từ đó tán thành thuyết tiến hóa xã hội. Như vậy, những bước đi tiên hong trong nghiên cứu văn hóa chủ yếu thuộc về các nhà khoa châu Âu từ nhiều chuyên môn.
Giai đoạn 2: từ đầu thế kỷ XX đến những năm 80 của thế kỷ XX là giai đoạn phát triển của văn hóa học, trong đó đặc biệt có vai trò lớn của nhân học. Trong những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, các nhà nhân học văn hóa Mỹ qua phong trào nghiên cứu văn hóa và ngôn ngữ của các thổ dân đã có nhiều đóng góp quan trọng. F. Boas, E. Sapir và B. Whorf đã phê phán các thuyết tiến hóa luận và truyền bá luận, đề xuất thuyết phê bình lịch sử chú trọng vai trò của lịch sử đối với văn hóa, tiếp cận
khái niệm văn hóa từ lý thuyết hành vi. Ở Anh, Bronislaw Malinowsky (1884-1942) đã lập ra chức năng luận với thuyết nhu cầu văn hóa. “ Tổng thể toàn vẹn những công cụ và hàng hóa tiêu dùng, đặc quyền vật chất cho những nhóm xã hội khác nhau, những tư tưởng miêu mẹo, phong tục của con người .” Dù xem xét một xã hội đơn giản hay nguyên thủy, hay một nền văn hóa cực kỳ phức tạp và phát triển, đều thấy có phần vật chất, tinh thần, có phần con người. Ở Pháp, Levi-Strauss (1908-1996) với Nhân học cấu trúc đã sáng lập trường phái cấu trúc luận. Như vậy, trong giai đoạn này, ở phương Tây, nhân học đã đóng góp lớn vào sự phát triển của văn hóa học. Trong khi đó, ở Trung Quốc, văn hóa học cũng bắt đầu phát triển và gặt hái thành công không lệ thuộc gì vào nhân học. Người Trung Quốc đầu tiên sử dụng thuật ngữ “văn hóa học” là Lý Đại Chiêu, với ý nghĩa là khoa học nhân văn. Nền móng lý luận thực sự cho sự hình thành văn hóa học là công trình Văn hóa học phương pháp luận và Văn hóa học kiến thiết luận của Hoàng Văn Sơn. Đồng thời, Điềm Hoán Văn xuất bản cuốn Văn hóa học vào năm 1934, Chu Khiêm Chi xuất bản cuốn Triết học văn hóa vào năm 1935, Trần Tự Kinh xuất bản cuốn Khái quan văn hóa học vào năm 1947. Ở Đài Loan, công trình Hệ thống văn hóa học của Hoàng Văn Sơn rất được giới khoa học chú ý. Năm 1983, ông cho ra mắt cuốn Văn hóa học và vị trí của nó trong hệ thống khoa học. Giai đoạn 3: từ cuối những năm 80 thế kỷ XX đến nay là giai đoạn bùng nổ của văn hóa học. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học đã bùng nổ trên phạm vi toàn thế giới. Ở Nga, trong những năm 90, xuất hiện hàng chục cuốn giáo trình, chuyên luận, từ điển về văn hóa và văn hóa học. Ở Trung Quốc, giai đoạn này, cũng xuất hiện hàng loạt công trình lý uận về văn hóa học.
Thứ tư, văn hóa có chức năng giáo dục. Văn hóa thực hiện được chức năng giáo dục do nó có năng lực thông tin hoàn hảo. Ở động vật cao cấp, thông tin được truyền đạt bằng cách quan sát và bắt chước hành vi của cha mẹ, công việc này mỗi thế hệ mới lại bắt đầu lại từ đầu. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, lượng thông tin không tăng lên. Con người nhờ văn hóa mà thông tin được mã hóa thành những hệ thống ký hiệu cá nhân, từ đó được tích lũy, nhân bản và tăng lên nhanh chóng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự tích lũy và chuyển giao những kinh nghiệm tập thể thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội trong cộng đồng người qua không gian và thời gian, được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tạo nên truyền thống văn hóa trên cơ sở tính lịch sử của nó chính là chức năng giáo dục của văn hóa. Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những truyền thống mà còn bằng cả những giá trị
đang hình thành. Các truyền thống và những giá trị đang hình thành tạo nên một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa đưa con người hòa nhập cộng đồng xã hội nên chức năng này của văn hóa còn gọi là chức năng xã hội hóa. Ngoài những chức năng cơ bản, văn hóa còn có chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí. Như một tiến trình thống nhất, văn hóa chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của con người. Văn hóa tổ chức và điều chỉnh xã hội, giúp con người giao tiếp và thông tin. Văn hóa giáo dục và đưa con người hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực phát triển của xã hội. Văn hóa là chất keo gắn kết con người với nhau.
Câu 15. Cấu trúc của hệ thống văn hóa (tài liệu 1, 2, 3, 4) Con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Vì vậy, con người cũng có hai loại hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Từ đó hệ thống văn hóa thường được chia làm hai dạng là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Văn hóa vật chất bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất của con người tạo ra như đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại. Văn hóa tinh thần bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất tinh thần của con người tạo ra như tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương. Sự phân chia này mới nhìn tưởng như khá rõ, nhưng nhìn kĩ sẽ thấy xuất hiện hàng loạt trường hợp phức tạp. Ví dụ, các dạng hoạt động, các mối quan hệ sản xuất xếp vào dạng văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần? Thông thường, hoạt động sản xuất vật chất được xếp vào dạng văn hóa vật chất (vì loại hoạt động phải sử dụng nhiều năng lực cơ bắp, mồ hôi), còn hoạt động sản xuất tinh thần được xếp vào văn hóa tinh thần (vì loại hoạt động này chủ yếu sử dụng năng lực trí tuệ)
Không ít vật dụng sinh hoạt hàng ngày lại có giá trị nghệ thuật rất cao. Ngược lại, các sản phẩm tinh thần cũng tồn tại dưới dạng được vật chất hóa. Trong thực tế, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần luôn gắn bó mật thiết với nhau và có thể chuyển hóa cho nhau. K.Marx nói, tư tưởng sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó được quần chúng nhân dân hiểu rõ. Vì vậy, tùy theo mục đích khác nhau, việc phân biệt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần sẽ dựa vào những tiêu chí khác nhau. Việc phân biệt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có thể thực hiện một cách tương đối căn cứ vào mức độ vật chất và tinh thần của đối tượng. Trong trường hợp dùng mục đích sử dụng làm tiêu chí bổ trợ, những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ các nhu cầu vật chất thì dù có giá trị nghệ thuật cao đến mấy vẫn thuộc dạng văn hóa vật chất. Những sản phẩm làm ra trước hết để phục vụ các nhu cầu tinh thần thì dù được vật chất hóa đến mấy chúng vẫn thuộc dạng văn hóa tinh thần. Dựa vào chất liệu để phân biệt bản chất của chúng, đưa ra bức tranh khoa học về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất liên quan đến sự biến đổi mang tính sáng tạo
tự nhiên chung quanh thành những sản phẩm có dạng chất liệu vật thể (hữu hình), còn văn hóa tinh thần chỉ liên quan đến sự biến đổi mang tính sáng tạo bên trong thế
giới tâm hồn của con người thành những sản phẩm có dạng phi vật thể thuần túy. Như vậy, cùng một đối tượng có thể vừa có giá trị vật chất, vừa có giá trị tinh thần. Câu 16. Lý thuyết hệ thống - cấu trúc trong nghiên cứu văn hóa học (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6) Theo chủ nghĩa tương đối văn hóa, C. L. Strauss có quan điểm khác về mối quan hệ giữa văn hóa và lịch sử. Theo L. Strauss, những hiện tượng văn hóa, nền văn hóa không đồng nhất, nhưng chúng có những khuôn mẫu nền tảng chung có tính xuyên lịch sử. Chủ nghĩa cấu trúc của ông tập trung vào việc khám phá những khuôn mẫu đó. Theo ông, mỗi hình thái văn hóa là một tập hợp các kí hiệu tùy tiện, cấu trúc của các ký hiệu ấy là cách những ký hiệu ấy (những yếu tố văn hóa) liên hệ với nhau để hình thành nên một hệ thống toàn diện. Đối tượng khảo sát của ông là huyền thoại và hệ thống thân tộc ở các xã hội bán khai. Bằng phương pháp phân tích cấu trúc, ông đã tìm thấy những tương đồng cơ bản trong mô hình tư tưởng của con người là lối tư duy nhị nguyên. Levi Strauss còn cho rằng xã hội có một lớp che phủ bên ngoài không thể nhận thức được. Các nhà nghiên cứu phải giải thích được cấu trúc sâu bên trong đó, vượt qua những hiện tượng bề mặt để thâm nhập sâu hơn, khái quát hơn. Ông không tin cách con người sống quyết định lối suy nghĩ của họ như quan điểm của chức năng luận. Theo trường phái cấu trúc luận, văn hóa do một số mã được lập trình sẵn trong não bộ người quyết định. Mặt khác, văn hóa là cái thay
đổi liên tục nhưng vẫn có những yếu tố ít thay đổi. Việc xây dựng cấu trúc văn hóa cần đáp ứng thực tế đó. Vì vậy, cấu trúc văn hóa có hai bậc: biểu tầng thường xuyên thay đổi là yếu tố động của văn hóa, và cơ tầng ít thay đổi là yếu tố tĩnh của văn hóa. Cấu trúc ấy giải thích tại sao văn hóa không thể biến đổi ngay lập tức. Công trình nghiên cứu đầu tiên của Levi Strauss thể hiện tư tưởng nhị nguyên cấu trúc trong nghiên cứu văn hóa là tác phẩm The elementary structure of kinship. Kế thừa quan điểm phân tích của Marcel Mauss về quà tặng, Levi Strauss cho rằng các tập tục trong hôn nhân và quan hệ dòng họ ở tất cả các xã hội nguyên thủy đều xuất phát từ nhận thức đầu tiên của con người về sự khác biệt giữa cái tôi và cái khác tôi. Vì vậy, theo đó, tập tục hôn nhân ngoài dòng tộc được thực hành phổ biến ở các xã hội truyền thống thời nguyên thủy đã được sản sinh ra bởi cặp phạm trù nhị nguyên cái tôi và cái khác tôi. Trong công trình Thần thoại học, ông đi sâu phân tích cấu trúc ẩn chung của từng câu chuyện thần thoại của các tộc người vùng Mỹ Latinh, loại cấu trúc thể hiện mô hình tư duy nhị nguyên phổ quát của chủ nhân các câu chuyện thần thoại mà ông phân tích. Câu 17. Thuyết đặc thù lịch sử (tài liệu 2, 3, 4, 5, 6) Với lý thuyết đặc thù lịch sử (historical particularison), F. Boas và A. Kroeber cho rằng văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử, gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý cụ thể. Trong cuốn Giới hạn của phương pháp so sánh trong nhân học, Franz Boas (1858-1942) đã chứng minh: các nền văn hóa có nhiều nét tương tự nhau là do nhiều lý do, trong đó bao gồm cả sự truyền bá và thương mại, đặc biệt là tính quyết định của hoàn cảnh lịch sử. Ông cho rằng, các môi trường tương ứng hay những biến cố lịch sử sẽ tạo ra những
nét văn hóa tương tự nhau, độc lập với những quá trình tiến hóa chung khác. Vì vậy, sự tồn tại những nét chung như vậy không thể được sử dụng như những bằng chứng cho giai đoạn tiến hóa văn hóa chung. Theo Boas, khi giải thích các hiện tượng văn hóa tộc người, chúng cần phải được xem xét ở 3 phương diện: điều kiện môi trường, yếu tố tâm lý và liên kết lịch sử, trong đó liên kết lịch sử là quan trọng nhất. Từ đó, ông cho rằng cách giải thích tốt nhất các hiện tượng văn hóa là đặt chúng vào sự phát triển lịch sử của xã hội mà chúng diễn ra. Tuy nhiên ông lại cho rằng mỗi nền