




























































































Study with the several resources on Docsity
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Prepare for your exams
Study with the several resources on Docsity
Earn points to download
Earn points by helping other students or get them with a premium plan
Community
Ask the community for help and clear up your study doubts
Discover the best universities in your country according to Docsity users
Free resources
Download our free guides on studying techniques, anxiety management strategies, and thesis advice from Docsity tutors
nội dung đầy đủ, rõ ràng rành mạch, được sắp xếp theo trình tự hợp lý
Typology: Summaries
1 / 283
This page cannot be seen from the preview
Don't miss anything!
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
Nhóm biên soạn: Bộ môn Quản trị tác nghiệp Thương mại quốc tế TS. Lê Thị Việt Nga TS. Phan Thu Trang ThS. Trương Quang Minh ThS. Nguyễn Đức Xuân Lâm ThS. Lê Hoàng Quỳnh Hà Nội, 2023
Tên học phần (tiếng Việt) : Kinh doanh quốc tế Tên học phần (tiếng Anh) : International Business Số tín chỉ: 03 Giờ lý thuyết: 36 - Giờ thảo luận: 18 - Giờ tự học: 96 Mục tiêu của học phần : Sau khi hoàn thành học phần, sinh viên sẽ trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về kinh doanh quốc tế, động cơ tiến hành hoạt động kinh doanh quốc tế, tác động của toàn cầu hóa và các yếu tố thuộc môi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội, địa lý kinh tế, nhân khẩu học tới hoạt động kinh doanh quốc tế, các phương thức thâm nhập thị trường, chiến lược kinh doanh quốc tế và cấu trúc tổ chức của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Ngoài ra, học phần cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về quản trị chuỗi cung ứng, quản trị marketing quốc tế, quản trị nguồn nhân lực, quản trị tài chính tại các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế và một số vấn đề về đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Bên cạnh đó, sinh viên cũng sẽ được trang bị kỹ năng trong việc đánh giá tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động kinh doanh quốc tế, kỹ năng lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường, xây dựng chiến lược kinh doanh quốc tế và những kỹ năng mềm khác như kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thuyết trình, thảo luận Nội dung giảng dạy của học phần
Tình huống mở đầu HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA VINAMILK Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vietnam Dairy Products Joint Stock Company - Vinamilk) là một công ty sản xuất, kinh doanh sữa và các sản phẩm từ sữa cũng như thiết bị máy móc liên quan tại Việt Nam, được thành lập từ năm 1976. Trong hơn 40 năm phát triển, Vinamilk luôn tiên phong phát triển các sản phẩm mới dẫn đầu xu hướng về dinh dưỡng và sức khoẻ theo các chuẩn mực cao nhất của thế giới. Năm 2020, Vinamilk đã có hệ thống 10 trang trại đang hoạt động, đều có quy mô lớn với toàn bộ bò giống nhập khẩu từ Úc, Mỹ, và New Zealand. Hệ thống trang trại Vinamilk trải dài khắp Việt Namlà những trang trại đầu tiên tại Đông Nam Á đạt chuẩn quốc tế Thực Hành Nông Nghiệp Tốt Toàn cầu (Global G.A.P.). Trang trại bò sữa organic tại Đà Lạt được khánh thành vào tháng 3-2017 là trang trại bò sữa organic đầu tiên tại Việt Nam đạt được tiêu chuẩn Organic Châu Âu do Tổ chức Control Union chứng nhận. Ngoài 13 nhà máy sản xuất sữa trải dài khắp Việt Nam, Vinamilk còn đầu tư xây dựng nhà máy sữa Angkor tại Campuchia (Vinamilk sở hữu 100%), Vinamilk nắm 22,8% cổ phần tại nhà máy sữa Miraka (New Zealand), sở hữu 100% cổ phần nhà máy Driftwood (Mỹ), đầu tư công ty con tại Ba Lan làm cửa ngõ giao thương các hoạt động thương mại của Vinamilk tại châu Âu và mở văn phòng đại diện tại Thái Lan. Sản phẩm của Vinamilk hiện cũng có mặt ở hơn 40 nước trên thế giới, như Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Đông, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Canada, Mỹ, Úc... Kim ngạch xuất khẩu của Vinamilk từ mức xấp xỉ 30 triệu USD vào năm 1998 đã tăng lên gần 260 triệu USD năm 2016. Toàn bộ quá trình sản xuất của nhà máy đều đạt chuẩn GMP và các tiêu chuẩn quốc tế khắt khe như tiêu chuẩn ISO 9001, ISO 17025, ISO 14000, tiêu chuẩn 22000 và tiêu chuẩn FSSC 22000, trong đó GMP là tiêu chuẩn bắt buộc đối với các nhà máy sản xuất dược phẩm và được khuyến khích áp dụng cho cả các công ty thực phẩm nói chung. Không ngừng nỗ lực áp dụng những công nghệ và tiêu chuẩn hàng đầu thế giới, nâng cao chất lượng sản phẩm, Vinamilk được tạp chí Forbes Việt Nam bình chọn là thương hiệu giá trị nhất Việt Nam với giá trị thương hiệu đạt 1,7 tỷ USD và liên tục trong 3 năm liền Vinamilk được bình chọn là nhãn hàng tiêu dùng nhanh hàng đầu Việt Nam theo số liệu báo cáo của Kantar Worldpanel. Uy tín của công ty cũng như chất lượng sản phẩm lại một lần nữa đã được khẳng định khi sản phẩm sữa tươi Vinamilk 100% được Công ty Nielsen chứng nhận là nhãn hiệu đứng đầu phân khúc sữa tươi Vinamilk trong năm 2015, 2016 và 7 tháng đầu năm 2017 về cả doanh số và sản lượng. Ngày 28/11/2019, tại Singapore, Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) là doanh nghiệp sữa của Việt Nam duy nhất nhận giải thưởng Doanh nghiệp Xuất khẩu của Châu Á năm 2019 (The Asian Export Awards 2019), thuộc bảng các doanh nghiệp lớn. Trong đó, sản phẩm sữa đặc, mặt hàng xuất khẩu truyền thống thế mạnh của Vinamilk, đã được Ban tổ chức vinh danh trong hạng mục Thực phẩm chế biến (Processed Food). Bên cạnh các điểm sáng về hoạt động kinh doanh quốc tế khác trong năm 2019, giải thưởng này đã cho thấy một bước tiến của Vinamilk trong việc đem “sữa Việt” vươn ra thế giới.
1.1. Toàn cầu hóa 1.1.1. Khái niệm và bản chất của toàn cầu hóa Toàn cầu hóa đã có quá trình hình thành từ rất sớm, khi có sự hình thành các hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và có sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia. Đặc biệt, bước sang thế kỷ 19, từ những năm 1830, khi có sự phát triển của các tuyến giao thông đường biển, đường sắt và sự gia tăng các doanh nghiệp sản xuất, thương mại, hoạt động mua bán hàng hóa giữa các quốc gia trở nên phát triển, mở rộng hơn. Đến những năm 1890, hoạt động thương mại giữa các nước trở nên nhanh hơn, nhiều hơn nhờ có sự ra đời của các phương tiện truyền tin như điện thoại, máy điện báo. Sang đầu thế kỷ 20, thương mại quốc tế vẫn tiếp tục phát triển cùng với sự phát triển của những ngành công nghiệp như công nghiệp thép, công nghiệp điện năng cho đến khi nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn đại suy thoái bắt đầu từ năm
Trong nội dung của cuốn sách này, toàn cầu hóa được đề cập đến với ý nghĩa là toàn cầu hóa kinh tế. 1.1.2. Nội dung của toàn cầu hóa Nội dung toàn cầu hóa có thể được tiếp cận theo một số cách khác nhau. Nếu tiếp cận toàn cầu hóa dưới góc nhìn của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, nội dung của toàn cầu hóa bao gồm toàn cầu hóa thị trường và toàn cầu hóa quá trình sản xuất. Toàn cầu hóa các thị trường (The globalization of markets) Toàn cầu hóa các thị trường được đề cập với ý nghĩa là quá trình hợp nhất các thị trường ở các quốc gia vốn riêng rẽ và tách biệt thành một thị trường rộng lớn mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh các hàng rào đối với thương mại quốc tế được các nước đàm phán và cam kết cắt giảm, điều kiện tiếp cận thị trường cho hàng hóa và dịch vụ trở nên thuận lợi hơn, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế trở nên dễ dàng hơn. Vì vậy, sản phẩm hay dịch vụ của các doanh nghiệp được cung cấp tới nhiều thị trường ở nhiều quốc gia trên thế giới, thậm chí với dòng chảy của thương mại tự do dường như sở thích và thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau có thể dần trở nên đồng nhất, chính điều này giúp kiến tạo nên thị trường toàn cầu. Các sản phẩm tiêu dùng như thẻ tín dụng Citigroup, đồ uống Coca – Cola, các trò chơi video Sony PlayStation, bánh humberger McDonald’s, hay cà phê Starbucks là những ví dụ minh họa cho điều đó. Các doanh nghiệp như Citygroup, Coca-Cola, McDonald’s, Starbucks và Sony không chỉ là những người được hưởng lợi bởi thương mại tự do mà còn là những nhân tố giúp thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại, xóa bỏ rào cản trong thương mại quốc tế và hình thành thị trường toàn cầu. Trong thực tế, không chỉ những doanh nghiệp lớn như những tập đoàn đa quốc gia mới có thể cung cấp sản phẩm tới thị trường toàn cầu và thu được lợi ích từ việc toàn cầu hóa các thị trường, mà ngay cả những doanh nghiêp quy mô nhỏ như những doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tiếp cận với thị trường toàn cầu và dần dần thực hiện toàn cầu hóa thị trường cho sản phẩm của doanh nghiệp. Chẳng hạn như ở Mỹ, gần 90% số lượng các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu là những doanh nghiệp quy mô nhỏ với số lượng lao động ít hơn 100 người, và tỷ trọng của họ trong tổng sản lượng xuất khẩu của Mỹ đang tăng dần trong suốt thập niên vừa qua và hiện đang vượt quá 20%. Các doanh nghiệp với số lượng lao động ít hơn 500 người chiếm khoảng 97% số lượng các nhà xuất khẩu của Mỹ và chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu. Điển hình trong số đó là Hytech, nhà sản xuất tấm nền năng lượng mặt trời có trụ sở tại New York đạt doanh thu hàng năm là 3 triệu USD và 40% trong số đó là từ việc xuất khẩu sang 5 quốc gia khác. Hay B&S Aircraft Alloys một doanh nghiệp khác ở New York cũng là ví dụ điển hình, theo đó khoảng 40% của 8 triêu USD doanh thu hàng năm đến từ hoạt động xuất khẩu. Tình trạng này cũng tương tự như ở một số quốc gia khác. Theo Báo cáo của OECD, năm 2018, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nước OECD chiếm khoảng 95% tổng số các doanh nghiệp, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Ngoài ra, các doanh nghiệp này còn thực hiện các hoạt động đầu tư quốc tế. Cũng theo OECD, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ hoạt động kinh doanh quốc tế, tham gia vào thị trường toàn cầu thông qua xuất khẩu, đầu tư dựa trên nền tảng của cách mạng công nghệ 4.0 và coi đây là hoạt động chủ yếu để tạo ra doanh thu của doanh nghiệp. Có khoảng 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các nước OECD có khả năng tạo ra
khoảng 40% doanh thu từ hoạt động kinh doanh quốc tế. OECD cũng dự đoán số lượng các doanh nghiệp nhỏ vào vừa tham gia thị trường toàn cầu và khối lượng doanh thu đạt được từ hoạt động kinh doanh quốc tế của những doanh nghiệp đó tiếp tục tăng trong tương lai. Như vậy, cùng với quá trình hợp tác giữa các quốc gia với những nỗ lực mạnh mẽ trong việc giảm và xóa bỏ những rào cản trong thương mại và đầu tư quốc tế, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế có cơ hội tiếp cận thị trường thuận lợi hơn, có thể cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới các thị trường trên quy mô toàn cầu, kiến tạo nên một thị trường toàn cầu cho các loại hàng hóa của doanh nghiệp. Đó chính là nội dung toàn cầu hóa thị trường được nhìn nhận ở góc độ doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất (The globalization of production) Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất là quá trình sử dụng các nguồn lực, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất từ các quốc gia trên thế giới nhằm khai thác những lợi ích do sự khác biệt giữa các quốc gia về chi phí và chất lượng của các yếu tố như lao động, nguyên vật liệu, đất đai, vốn,... Các doanh nghiệp luôn mong muốn tối thiểu hóa giá thành sản phẩm, vì vậy cần tối thiểu hóa chi phí các yếu tố của quá trình sản xuất. Quá trình tự do hóa thương mại thông qua các thỏa thuận và cam kết của các nước giúp cho việc di chuyển các yếu tố như lao động, vốn, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu,… giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và quá trình hợp tác giữa các nước trong lĩnh vực đó tạo ra những cơ hội, thuận lợi cho các doanh nghiệp để được sử dụng các nguồn lực từ các quốc gia khác nhau nhằm hạ giá thành sản phẩm. Khi đó, một sản phẩm cuối cùng có thể được làm nên bởi các chi tiết, các yếu tố được sản xuất ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hay nói cách khác, việc sản xuất ra một sản phẩm không còn giới hạn trong biên giới một quốc gia với tất cả các linh kiện, chi tiết hay các yếu tố khác thuộc quốc gia đó mà có thể được thực hiện từ những yếu tố, những chi tiết, linh kiện ở nhiều quốc gia nhằm khai thác tối ưu lợi thế của mỗi nước và giảm thiểu chi phí sản xuất của sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, Airbus A380 là chiếc máy bay chở khách lớn nhất thế giới, một thành tựu đỉnh cao của ngành công nghiệp hàng không châu Âu, với tổng cộng khoảng 4 triệu bộ phận và những linh kiện được sản xuất bởi 1.500 công ty ở 30 quốc gia trên khắp thế giới. Tất cả sẽ được vận chuyển đến nhà máy lắp ráp của Airbus ở gần sân bay Toulouse-Blagnac tại Pháp. Hay những chiếc máy bay của hãng Boeing cũng được sản xuất từ những bộ phận được nhập khẩu từ khoảng 10 quốc gia bao gồm Nhật, Ý, Thụy sĩ… và được lắp ráp tại nhà máy của Boeing ở Everett, Washington, Mỹ. Một ví dụ điển hình khác là Apple, hãng này đã từng có quan hệ hợp tác với khoảng 785 đối tác từ hơn 30 quốc gia - là những nhà cung ứng các chi tiết, bộ phận cho việc sản xuất điện thoại Iphone của hãng. Tuy nhiên, dưới sự quản lý, điều hành của Tim Cook, từ năm 2015, ông đã cắt giảm còn khoảng 200 đối tác cung cấp các linh kiện sản xuất điện thoại Iphone, trong đó đáng kể như Samsung là một trong mười đối tác chính của Apple (với sự tham gia của các công ty con như Samsung Electro-Mechanics Co. Ltd., Samsung Electronics Co. Ltd., and Samsung SDI. Co. Ltd có trụ sở ở Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ, Philippines) cung cấp các linh kiện như bộ nhớ không khả biến (flash memory), bộ nhớ truy cập ngẫu nhiện động (DRAM), và nhiều chương trình ứng dụng khác. Như vậy, trong tiến trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ thông qua các hoạt động hợp tác, liên kết, hội nhập giữa các quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, luật pháp, văn
trường đều chịu tác động từ các yếu tố cơ bản như áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp, mức độ tự do hóa thương mại ở thị trường các nước cũng như lợi thế về chi phí. Dưới tác động của áp lực cạnh tranh khiến doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần phải lựa chọn nguồn lực và tổ chức sản xuất kinh doanh tại những thị trường khác nhau theo cách tối ưu nhất để tối thiểu hóa chi phí hàng hóa. Đồng thời dưới áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp khi cung cấp sản phẩm hay dịch vụ ngay tại thị trường nội địa cũng như tại thị trường nước ngoài khiến doanh nghiệp phải mở rộng và đa dạng hóa thị trường cho hàng hóa. Ngoài ra, giữa các thị trường có thể có sự khác biệt về chi phí, mức độ tự do hóa thương mại ở những thị trường khác nhau tạo ra điều kiện tiếp cận thị trường ở mức độ khác nhau, bởi vậy doanh nghiệp sẽ phải căn cứ vào những yếu tố đó để quyết định lựa chọn sử dụng nguồn lực hay cung cấp sản phẩm ở những thị trường nào mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác, chính áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế, mức độ tự do hóa thương mại và những khác biệt về chi phí ở các thị trường khác nhau là động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa hoạt động sản xuất và toàn cầu hóa thị trường. Khi đó, các doanh nghiệp trở nên liên kết và lệ thuộc vào nhau hơn trong quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm, họ cần có một cơ chế thương mại đảm bảo công bằng và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên thuận lợi hơn. Vì vậy, các quốc gia không ngừng hợp tác và hội nhập để tạo ra khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh quốc tế, tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp, cũng như tạo ra xung lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Quá trình toàn cầu hóa hay quá trình liên kết, hợp tác và hội nhập giữa các quốc gia được thúc đẩy bởi những nhân tố sau:
còn rất ít các quốc gia chưa có quan điểm và đường lối hội nhập theo hướng mở như vậy, thậm chí một số quốc gia bị tác động bởi những lệnh cấm vận kinh tế nên điều này cản trở quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia đó cũng như làm cản trở quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra.
Trên thế giới có nhiều doanh nghiệp rất thành công trong hoạt động kinh doanh quốc tế, có thể kể đến như: Honda đã phát triển hoạt động kinh doanh tới các thị trường nước ngoài thông qua việc thành lập công ty con ở Mỹ và một số quốc gia khác (trong đó có Việt Nam) để sản xuất, lắp ráp các sản phẩm xe máy, ô tô và xuất khẩu tới nhiều thị trường trên thế giới. Unilever (được thành lập năm 1929), hiện nay, là một doanh nghiệp đa quốc gia chuyên sản xuất các mặt hàng tiêu dùng như mỹ phẩm, hóa chất giặt tẩy, kem đánh răng, dầu gội, thực phẩm... Unilever đang sở hữu hơn 400 nhãn hiệu được bán tại hơn 190 quốc gia trên thế giới, trong đó có rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng như OMO, Surf, Lux, Dove, Knorr Comfort, Vaseline, Hazeline, Ponds, P/S, Signal, Close Up, AXE, Rexona, Vim, Cif, Sunsilk, Sunlight,.. Unilever thâm nhập thị trường Việt Nam từ năm 1994 thông qua việc thành lập liên doanh Lever Haso, đây là liên doanh đầu tiên giữa Unilever với một công ty con thuộc tổng công ty hóa chất Việt Nam (Vinachem). Tháng 2 năm 1995, Unilever thành lập liên doanh thứ hai là Lever Viso. Sau đó, cả hai liên doanh này sáp nhập thành Unilever Việt Nam. Unilever Việt Nam đang có 5 nhà máy tại Hà Nội, Củ chi, Thủ Đức và khu công nghiệp Biên Hoà. Sản phẩm của Unilever Việt Nam được phân phối thông qua 150 nhà phân phối và hơn 300 ngàn nhà bán lẻ, đạt đến độ bao phủ trên 80% số điểm bán hàng. Theo Báo cáo của Euromotnitor, năm 2016, Unilever thống trị ngành hàng nước rửa chén Việt Nam với 56% thị phần, nổi bật với Sunlight; 46% thị phần kem đánh răng với P/S và Close-up; 40% thị phần chăm sóc tóc, nổi bật với Dove và Sunsilk, 12% thị phần chăm sóc da với Pond's và Vaseline, 10% ngành kem với Walls. Tại Việt Nam, có nhiều doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công quốc tế và đầu tư ra nước ngoài,... Qua đó cho thấy các doanh nghiệp không chỉ cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng tại thị trường trong nước mà còn thực hiện xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng ở thị trường nước ngoài. Không chỉ thực hiện hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp còn đầu tư vốn, công nghệ sang thị trường nước ngoài để cung cấp hàng hóa và dịch vụ, tìm kiếm những cơ hội để phát triển hoạt động kinh doanh, tăng doanh thu, lợi nhuận. Khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vượt ra khỏi biên giới của quốc gia, mang tầm quốc tế, đó chính là lúc các doanh nghiệp đang thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế. Vì vậy, kinh doanh quốc tế được hiểu là việc các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động thương mại, đầu tư qua biên giới của quốc gia, mà thực chất đó là việc thực hiện các giao dịch qua biên giới nhằm mục đích sinh lợi, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của chính các doanh nghiệp. Hay nói cách khác, kinh doanh quốc tế là những hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể có trụ sở kinh doanh ở hai hay nhiều quốc gia khác nhau nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm những hoạt động như đầu tư, trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ. Hoạt động kinh doanh quốc tế có một số đặc điểm khác biệt so với hoạt động kinh doanh ở trong nước.
chủ thể có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy dòng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước, thậm chí các công ty đó còn là những chủ thể có vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình hình thành thị trường chung và quá trình liên kết giữa các quốc gia, phát triển các mối quan hệ quốc tế.